Hiện nay, đa số phẫu thuật viên áp dụng quy trình chuẩn cho một cuộc mổ thoát vị đĩa đệm cột sống cổ gồm các bước cơ bản sau:
Bệnh nhân được gây mê toàn thân, đặt nằm ngửa trên bàn mổ, cổ hơi ngửa. Bác sĩ sẽ rạch một đường ngang ở vùng da cổ của người bệnh. Trường hợp mổ 3 - 4 đĩa đệm cùng lúc có thể rạch da hình chữ Z. Các lớp màng gân (cân cơ) ở cổ được tách ra theo chiều dọc để không phải cắt ngang qua các cơ vùng cổ. Các dây thần kinh và mạch máu được bóc tách rồi đẩy ra ngoài hoặc vào trong. Khí quản, thực quản cũng được tách sang một bên. Mặt trước cột sống cổ được bộc lộ và banh ra bằng các dụng cụ chuyên biệt, được đánh dấu và chụp XQuang bằng máy chiếu C-arm để xác định chính xác vị trí cần mổ.
Sau khi nhắm trúng vị trí cần mổ, kính hiển vi được đưa vào để bác sĩ quan sát. Toàn bộ dây chằng, sụn và nhân nhầy xơ hóa của đĩa đệm bị bệnh sẽ được lấy ra. Đến đây, độ phóng đại của kính hiển vi được tăng lên nhằm tìm ra chỗ dây chằng dọc sau bị xé rách và lấy ra các mảnh vỡ của khối thoát vị. Dùng khoan mài cao tốc có gắn mũi kim cương để mài các chồi xương, giải phóng tủy sống.
Bác sĩ cần kiểm tra kỹ để đảm bảo tủy sống và các dây thần kinh đã được giải phóng hoàn toàn. Các đầu xương sẽ được làm sạch trước khi đặt một mảnh ghép nhân tạo vào chỗ đĩa đệm được lấy đi. Bề mặt trước cột sống cổ được làm phẳng để đặt nẹp lên, tất cả kết nối với nhau bằng các vít bắt cố định vào đầu đốt sống phía trên và dưới. Vết mổ được kiểm tra kỹ rồi mới cầm máu và đóng lại.
Trước đây người ta tranh luận xem có nên đặt mảnh ghép sau phẫu thuật không. Thực tế đã chứng minh nếu không đặt mảnh ghép, khoảng không gian giữa các đốt sống bị sụp xuống, lỗ liên hợp hẹp lại, các dây chằng bị cuộn lại và phồng lên tạo ra một khối chèn mới vào tủy hoặc dây thần kinh. Hiện nay, hầu như không còn bác sĩ nào chủ trương không đặt mảnh ghép nữa.
Giai đoạn đầu, người ta lấy xương chậu của chính bệnh nhân để làm mảnh ghép. Về mặt miễn dịch, mảnh ghép tự thân như thế là tốt nhất. Tuy nhiên, cách làm này tồn tại hàng loạt vấn đề: Chất lượng mảnh ghép chỉ tốt khi người bệnh không bị loãng xương hay các bệnh mãn tính. Kỹ thuật và dụng cụ lấy xương tự thân cũng quyết định chất lượng của mảnh ghép. Nếu có được loại cưa lưỡi kép cho phép cưa hai rãnh một lúc với có nhiều lưỡi kích cỡ khác nhau thì chất lượng mảnh ghép mới được đảm bảo. Tuy nhiên như thế chi phí sẽ cao hơn là dùng mảnh ghép nhân tạo.
Ngoài ra, còn nảy sinh hàng loạt vấn đề tại vị trí lấy mảnh ghép tự thân như nhiễm trùng, đau, hoại tử da, thương tổn thần kinh và mạch máu… Do vậy các bác sĩ luôn e ngại khi phải lấy xương chậu làm mảnh ghép cho đĩa đệm đốt sống cổ.
Các mảnh ghép đồng loài (từ người khác) hoặc dị loài (từ động vật khác) cũng đã được thử nghiệm, một số cho kết quả tốt, số khác gặp vấn đề về miễn dịch. Xu hướng hiện nay người ta dùng các vật liệu nhân tạo bằng titanium hoặc peek không kích ứng với cơ thể để làm thành một khung. Bên trong khung sẽ nhồi các xương ghép tự thân hoặc nhân tạo để làm cầu nối cho xương của người bệnh mọc ra tự nhiên nối liền 2 đốt sống được cố định.
Việc ghép xương và hàn các đốt sống lại với nhau có ưu điểm là đảm bảo bất động tốt, khu vực mổ không bị viêm hoặc đau. Tuy nhiên, do khớp của cột sống cổ bị hàn cứng, khi người bệnh cúi, ngửa, nghiêng, xoay cổ, lực tác động lên cột sống sẽ tăng ở khu vực các đĩa đệm kế chỗ được hàn cứng dễ gây thoát vị thêm.
Sau cuộc mổ, người bệnh thường bị đau khi nuốt. Nếu chịu khó uống nước, nói chuyện, tập nuốt thì sau 4 đến 5 ngày, cảm giác đau sẽ giảm nhiều. Trong trường hợp đặt mảnh ghép và cố định nẹp vít cột sống cổ, người bệnh phải mang nẹp cứng từ 3 đấn 6 tuần. Nẹp cổ thường khiến người bệnh khó chịu do cấn vào hàm, vai và xương đòn, gây đau. Nhất là vài ngày đầu mang nẹp cổ, người bệnh có cảm giác mỏi, cứng gáy và vai. Cảm giác này ngày càng tăng, đến khi bỏ nẹp và tập cúi, ngửa, nghiêng cổ vài ngày sẽ giảm. Khoảng 6 tuần tích cực tập luyện mới hết đau mỏi.
Tiến sĩ, bác sĩ Võ Xuân Sơn