Theo thống kê tại Bệnh viện Nhi đồng 1 TP HCM, phần lớn trẻ bị ngạt nước (72%) được phát hiện muộn và sơ cứu không đúng phương pháp nên dẫn đến tỷ lệ tử vong và tàn phế do di chứng não rất cao (27%), cao nhất trong các tai nạn trẻ em. Việc phát hiện sớm và sơ cứu ngạt nước tại chỗ đúng cách có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế tử vong và di chứng của tai nạn này.
65% trường hợp ngạt nước trẻ em xảy ra ở trẻ dưới 3 tuổi. Ở tuổi này, trẻ mới chập chững biết đi, do vậy có thể ngã chúi đầu vào những dụng cụ chứa nước như thùng, xô, lu... mà không thể tự động đứng lên, thoát ra được, cũng như trọng lượng trẻ chưa đủ nặng để làm đổ dụng cụ chứa nước. Ở trẻ lớn trong độ tuổi đi học, ngạt nước thường xảy ra ở ao, sông, hồ, biển, mương, suối, hào, đầm... Do trẻ không biết bơi chơi gần nơi có nước, rủi ro té ngã xuống nước, hoặc trẻ biết bơi nhưng bị hụt hơi, đuối sức, chuột rút...
Hậu quả của ngạt nước
Chìm lâu trong nước sẽ gây hậu quả cuối cùng là tổn thương não do thiếu oxy. Tình trạng thiếu oxy sẽ dẫn đến tổn thương não qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: Diễn ra trong 4 phút đầu tiên. Khi chìm trong nước, trẻ thường nuốt nhiều nước vào bụng, hít nhiều nước vào phổi. Nước nhiều trong bụng sẽ gây nôn ói, nhưng nước nhiều trong phổi sẽ nguy hiểm hơn vì làm hư hại lớp màng trong của phế nang, làm phổi không thể trao đổi khí, dẫn đến tình trạng thiếu oxy máu. Trong giai đoạn này trẻ bị ngưng thở, nhưng có thể hồi phục hoàn toàn nếu được vớt lên và hồi sức kịp thời.
- Giai đoạn tiếp theo: Nếu không được vớt lên kịp thời, tình trạng thiếu oxy máu tiếp tục kéo dài sẽ ảnh hưởng đến tất cả các cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là não và tim. Thiếu oxy ở não sẽ gây phù não làm mất tri giác, hôn mê. Tình trạng này kéo dài dẫn đến tăng áp lực nội sọ, ức chế vùng hành tủy gây ngừng thở. Những thay đổi tim mạch do ngạt nước được ghi nhận gồm: Khởi đầu là tăng nhịp tim, sau đó nhịp tim chậm đi, co bóp tim không còn hiệu quả, diễn tiến đến loạn nhịp tim, đột ngột suy tuần hoàn và ngừng tim.
Những dấu hiệu thường gặp ở trẻ ngạt nước khi được vớt lên
- Trẻ ngạt nước khi được vớt lên thường hôn mê, tím tái kèm theo tình trạng ngưng thở, ngưng tim.
- Trẻ hôn mê khi lay gọi, không tỉnh.
- Trẻ ngưng thở khi quan sát lồng ngực, không thấy lồng ngực nhấp nhô, di động theo nhịp thở.
- Trẻ ngưng tim khi sờ mạch ở cổ, háng hoặc khuỷu tay không bắt được mạch.
Cần làm gì khi trẻ bị ngạt nước?
Thời gian thiếu dưỡng khí được tính từ khi trẻ bị chìm trong nước cho đến khi được vớt lên và thở lại có hiệu quả. Mức độ phục hồi của nạn nhân tùy thuộc vào hiệu quả của việc sơ cứu thích hợp tại chỗ. Vì thế khi phát hiện trẻ bị ngạt nước, phải nhanh chóng vớt trẻ lên và cung cấp dưỡng khí ngay cho trẻ bằng động tác thổi ngạt (hô hấp nhân tạo).
Động tác thổi ngạt được thực hiện như sau: Hít thật sâu. Áp miệng thật sát vào mũi và miệng trẻ (đối với trẻ nhỏ) hoặc thổi miệng qua miệng cho trẻ lớn. Thực hiện thổi liên tiếp 2 lần, nhìn xem lồng ngực trẻ có di động không, sau đó thổi theo nhịp 4 giây/lần.
Nếu trẻ có ngưng tim, thực hiện ấn tim. Vị trí ấn tim: trên mấu xương ức 1 khoát ngón tay (đối với trẻ nhỏ), 2 khoát ngón tay đối với trẻ trên 8 tuổi. Tần số ấn tim là 100 lần /phút. Ấn tim đúng khi sờ được mạch ở nhịp ấn vào.
- Ấn tim và thổi ngạt theo nhịp 5/1 cho trẻ nhỏ, có nghĩa là ấn tim 5 nhịp xen kẽ với 1 nhịp thổi ngạt.
- Ấn tim và thổi ngạt theo nhịp 15/2 cho trẻ trên 8 tuổi, có nghĩa là ấn tim 15 nhịp xen kẽ với 2 nhịp thổi ngạt.
Thực hiện động tác sơ cứu cho đến khi có mạch thì ngưng ấn tim, nhưng vẫn tiếp tục thổi ngạt.
Tiếp tục động tác thổi ngạt cho đến khi trẻ tự thở thì ngưng thổi ngạt.
Sơ cứu tại chỗ được xem là thành công khi da trẻ hồng hào, tự thở được, tim đập lại, sờ được mạch rõ, trẻ tỉnh táo.
Sau khi sơ cứu, cần đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế gần nhất. Một điều rất nguy hiểm là trẻ ngạt nước có thể tử vong trên đường chuyển viện, hoặc nhập viện trong tình trạng rất nặng do thiếu dưỡng khí, vì vậy cần lưu ý vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác sơ cứu trong lúc di chuyển trẻ đến cơ sở y tế.
Những sai lầm cần tránh
- Xốc nước bằng cách cõng ngược trẻ trên lưng và chạy xa hàng trăm thước. Động tác sơ cứu này không cung cấp được dưỡng khí và sẽ làm kéo dài thời gian thiếu oxy não ở trẻ.
- Xốc nước bằng cách đặt trẻ nằm trên chiếc lu, lăn qua lăn lại và đốt rơm trong lu. Biện pháp này không những kéo dài thời gian thiếu oxy não ở trẻ, mà còn có thể làm trẻ bị phỏng ở bụng và chân tay. Đã có trường hợp trẻ bị phỏng nặng cần phải ghép da và nằm viện hơn 2 tháng.
- Không cho cha mẹ đi theo, điều này gây khó khăn, chậm trễ trong điều trị vì người đưa trẻ đến bệnh viện không nắm rõ sự việc xảy ra.
Phòng ngừa tai nạn ngạt nước ở trẻ em
Tai nạn ngạt nước có thể xảy ra tại nhà, nhà trẻ, trường mẫu giáo hoặc những nơi có dụng cụ chứa nước. Do vậy, những biện pháp phòng ngừa chủ yếu là tạo sự an toàn cho trẻ trong gia đình, nhà trẻ và môi trường sinh hoạt, vui chơi.
1. Phòng tránh ngạt nước cho trẻ em trong gia đình, nhà trẻ:
- Cẩn thận với các dụng cụ chứa nước: Đậy kín thùng chứa nước, lu, xô, thau.., xả hết nước trong bồn tắm khi không sử dụng. Không cho trẻ nhỏ nghịch gần nơi chứa nước.
- Nếu ở vùng sông nước, không cho trẻ chơi đùa gần ao, hồ, sông, rạch, giếng. Nhất là vào mùa lũ, cần theo dõi trẻ thật sát vì nguy cơ gây tai nạn ngạt nước càng cao.
2. Phòng tránh ngạt nước cho trẻ trong môi trường vui chơi, giải trí:
- Cho trẻ học bơi và có các biện pháp an toàn khi bơi lội: Khởi động trước khi bơi, không bơi lúc ăn no, không đùa giỡn quá nhiều trước và trong khi bơi. Tốt nhất nên trông chừng cẩn thận khi trẻ đang bơi.
- Không cho trẻ bơi ở những nơi không biết rõ độ sâu như đầm, vũng, hố...
3. Bố trí nhân viên cấp cứu tại hồ bơi, bãi tắm để sẵn sàng cứu hộ ngạt nước. Tập huấn, hướng dẫn cách cứu người chết đuối trong cộng đồng để có thể xử trí tại chỗ khi có người bị nạn.
BS. Nguyễn Thị Kim Thoa, Sức khoẻ và Đời sống