Tĩnh mạch giãn rộng, tạo thành búi. |
Một nghiên cứu tại TP HCM thực hiện trên những người từ 50 tuổi trở lên cho thấy, tần suất mắc bệnh giãn tĩnh mạch chân là 44%. Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ cao gấp 3 lần nam. Trên thế giới, tần suất mắc bệnh là khoảng 35% ở độ tuổi lao động, 50% ở những người nghỉ hưu. Phụ nữ có tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 4 lần nam giới.
Vấn đề bệnh này có di truyền hay không hiện còn gây tranh cãi. Giáo sư Phạm Khuê, nguyên Viện trưởng Viện Lão khoa Việt Nam, cho biết, 80% bệnh nhân giãn tĩnh mạch chân mạn tính có cha hoặc mẹ mắc bệnh.
Các biến chứng
- Vỡ chỗ giãn tĩnh mạch: Gây chảy máu nhiều và liên tục, nhất là khi bệnh nhân ở tư thế đứng hoặc ngồi. Trong trường hợp này, cần cho bệnh nhân nằm, giơ chân cao và băng ép lại.
- Viêm tắc đoạn tĩnh mạch bị giãn: Một đám hay một đoạn tĩnh mạch bị giãn như sợi dây thừng, thay đổi màu sắc, da ở vùng này sưng, đỏ và tăng nhiệt độ.
- Loét dinh dưỡng da: Da nổi các vết sắc tố, mỏng đi và xuất hiện các vết loét dinh dưỡng do ứ trệ tuần hoàn và tăng áp lực tĩnh mạch tại chỗ. Chỗ loét có thể tự lành khi tình trạng ứ trệ tuần hoàn được cải thiện nếu bệnh nhân nằm nghỉ tuyệt đối trên giường, chân kê cao hoặc dùng băng ép.
- Thuyên tắc lòng tĩnh mạch do hình thành cục máu đông: Thường do rối loạn dòng chảy và ứ trệ tuần hoàn trong lòng tĩnh mạch. Cục máu đông có thể đi về tim và gây thuyên tắc động mạch phổi, có thể dẫn đến tử vong trong vài phút nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Các phương pháp điều trị
* Điều trị nội khoa:
1. Nếp sinh hoạt khoa học:
- Không đứng hay ngồi một chỗ quá lâu.
- Không để trọng lượng cơ thể tăng.
- Khi nghỉ ngơi, nên để chân cao hơn ngực, gác chân cao khi đi ngủ.
- Ăn nhiều rau, củ, quả và uống nhiều nước để chống táo bón.
- Tăng cường các hoạt động thể dục thể thao, tốt nhất là đi bộ mỗi ngày 15 phút và đi nhanh gấp 3 lần bình thường.
- Tăng cường vận động hô hấp: Hít thở sâu và đúng.
- Xoa bóp và ngâm chân trong nước ấm.
2. Dùng băng ép và tất ép
Mục đích là để tạo áp lực lớn ở phía dưới, áp lực nhỏ ở phía trên và giảm đường kính lòng mạch, giúp máu tĩnh mạch lưu thông về phía trên dễ dàng hơn. Hai dụng cụ này được sử dụng để dự phòng bệnh suy giãn tĩnh mạch mạn tính, hỗ trợ cho các biện pháp điều trị nội khoa và phòng ngừa tái phát. Chỉ được dùng băng và tất ép theo chỉ định của bác sĩ.
3. Uống thuốc
Dùng thuốc trợ tĩnh mạch và chống đông máu theo chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.
* Điều trị thủ thuật và ngoại khoa:
1. Chích xơ:
Tĩnh mạch bao gồm ba hệ thống: nông, sâu và xuyên. Chích xơ chỉ dùng trong trường hợp tổn thương hệ thống tĩnh mạch xuyên. Bác sĩ sẽ tiêm thuốc gây xơ hóa toàn bộ tĩnh mạch. Bệnh nhân được chích xơ nhiều lần cho đến khi không còn giãn tĩnh mạch nữa.
2. Mổ cắt bỏ tĩnh mạch bị giãn.
Có 2 phương pháp:
- Phẫu thuật lột tĩnh mạch (Stripping) kéo dài khoảng 5-10 phút, được áp dụng cho trường hợp tổn thương tĩnh mạch nông. Bác sĩ rạch ở mắt cá trong và nếp bẹn rồi luồn một dụng cụ có tên Stripper từ dưới mắt cá trong đi lên trên nếp bẹn để lôi toàn bộ tĩnh mạch bị giãn ra.
- Phẫu thuật Chivas kéo dài khoảng 10-20 phút, dùng cho trường hợp giãn từng đoạn ngắn. Bác sĩ sẽ rạch và lấy từng đoạn tĩnh mạch ra.
Sau phẫu thuật, bệnh nhân được băng ép toàn bộ chi và nằm bất động trên giường ba ngày. Các tai biến có thể xảy ra gồm: chảy máu, nhiễm trùng, hình thành cục máu đông gây thuyên tắc động mạch phổi do mổ không được khéo.
TS Nguyễn Hoài Nam, Người Lao Động