Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, bạch cầu cấp chiếm 45% số bệnh nhân ung thư nhập viện. Mỗi năm, cơ sở này tiếp nhận 120-150 trẻ mắc bạch cầu cấp mới.
Trước đây, trẻ mắc bệnh này tử vong trong vòng 1 năm. Nhờ những tiến bộ vượt bậc của y học trong chẩn đoán, phân loại và điều trị bệnh, hiện nay ở các nước phát triển, trên 60% bệnh nhi đã được cứu sống, 90% sống thêm được 3-5 năm. Ở Việt Nam, việc điều trị còn gặp rất nhiều khó khăn nên kết quả rất hạn chế. Chỉ 8-10% số trẻ bị bạch cầu cấp vào Bệnh viện nhi Trung ương có điều kiện theo đuổi điều trị một cách đầy đủ.
Bệnh bạch cầu cấp xảy ra ở mọi lứa tuổi, song phổ biến ở trẻ dưới 5 tuổi, trẻ trai mắc bệnh nhiều hơn trẻ gái. Bệnh thường bắt đầu bằng triệu chứng sốt và da xanh do thiếu máu. Đặc điểm của triệu chứng sốt là sốt thất thường, sốt cao, lúc đầu dễ lầm lẫn là do một bệnh nhiễm trùng, điều trị bằng kháng sinh không có hiệu quả; có thể sốt từng đợt, tái diễn. Kèm theo sốt là biểu hiện da xanh dần, mệt mỏi, thở nhanh, tim đập nhanh do thiếu máu. Tình trạng thiếu lúc đầu nhẹ, sau nặng dần, đòi hỏi phải truyền máu nhiều lần. Ngoài ra, bệnh nhân còn bị xuất huyết, trên da có nhiều chấm đỏ và mảng bầm tím, chảy máu cam, rỉ máu ở lợi; trường hợp nặng có thể bị chảy máu ở đường tiêu hóa, nội sọ và phổi, gây tử vong. Nhiều bệnh nhân bị nổi hạch to ở hai bên cổ, nách, bẹn; lách to và xương khớp đau. Nhiều trường hợp đau xương dễ lầm lẫn với viêm đa khớp.
Nếu không được điều trị, bệnh tiến triển nặng dần. Bệnh nhân sốt nhiều hơn, thiếu máu nặng, xuất huyết nhiều, dễ có nguy cơ tử vong do chảy máu nặng và nhiễm khuẩn.
Để chẩn đoán xác định bệnh, phải làm xét nghiệm máu ngoại biên và máu tủy. Bệnh bạch cầu cấp được phân loại thành 2 dòng: dòng lympho và bạch cầu cấp dòng tủy. Ở trẻ em, 70% trường hợp là bạch cầu cấp dòng lympho, có tiên lượng điều trị tốt hơn bạch cầu cấp dòng tủy.
Việc điều trị bệnh bạch cầu cấp khá phức tạp và khó khăn vì cần nhiều loại thuốc; các thuốc đều có nhiều độc tính, tác dụng phụ nhiều. Thời gian điều trị dài 2-3 năm. Bệnh nhân phải điều trị liên tục, được theo dõi tại một cơ sở chuyên khoa. Ngoài dùng thuốc, trẻ còn phải được truyền máu, chống nhiễm trùng bội phụ, một số ít trường hợp phải ghép tủy xương nên chi phí điều trị khá cao. Vì thế, cho đến nay, chỉ khoảng 8-10% bệnh nhân có điều kiện chấp nhận điều trị đầy đủ.
Phương pháp điều trị bao gồm: đa hóa trị liệu, điều trị hỗ trợ (bao gồm cả truyền các chế phẩm máu và ghép tủy xương nếu cần) và chống nhiễm khuẩn. Trong suốt thời gian điều trị, trẻ được theo dõi tại bệnh viện để đánh giá tiến triển bệnh, tác dụng phụ, độc tính do điều trị và biến chứng nhiễm trùng cơ hội... nhằm điều chỉnh chế độ điều trị và xử trí kịp thời.
GS Nguyễn Công Khanh, Sức Khoẻ & Đời Sống