Cảm cúm thuộc phạm vi ôn bệnh (còn gọi là ôn dịch, dịch lệ). Y học cổ truyền có thể điều trị các thể nhẹ và hỗ trợ trong các thể trung bình.
Thể tà xâm phạm vào phế, vệ
Bệnh nhẹ, triệu chứng nổi bật là phát sốt, hơi sợ gió lạnh, không có mồ hôi hoặc ít mồ hôi, nhức đầu, hơi có cảm giác khát, rêu lưỡi mỏng, mạch nhanh (trên 90 lần/phút). Phương pháp chữa: dùng các vị thuốc có tinh dầu, tính cay, mát, sát khuẩn đường hô hấp (như bạc hà, kinh giới); có tính kháng sinh (kim ngân hoa, liên kiều) hay tác dụng hạ sốt (lá tre, lá dâu) và giảm ho, đau họng (cát cánh, cam thảo, ngưu bàng tử)...
Bài thuốc kinh điển là "Ngân kiều tán": Liên kiều 40 g, kim ngân 40 g, bạc hà 24 g, kinh giới 16 g, trúc diệp (lá tre) 16 g, đậu xị 20 g, cát cánh 24 g, ngưu bàng tử 24 g, cam thảo 20 g. Các vị trên xay nhỏ, mỗi lần uống 30 g sắc với rễ lau tươi, khi thấy hơi thơm bốc thì rót ra uống (không sắc lâu vì bay mất tinh dầu làm giảm tác dụng của thuốc). Bệnh nặng cứ 2 giờ uống một lần; nhẹ thì 3 giờ uống một lần, ngày uống 3 lần, đêm uống một lần. Bệnh chưa khỏi thì uống thêm một thang như trên.
Bài thuốc này thích hợp nhất với chứng: phát sốt, sợ lạnh và không có mồ hôi. Nếu hết sợ lạnh rồi thì không dùng kinh giới và đậu xị nữa. Nếu bệnh nhân không tiện dùng thuốc tán, có thể đổi thành thuốc thang mà sắc uống, nhưng liều lượng mỗi vị thì cần căn cứ theo thuốc tán mà giảm đi. Khi sắc không nên sắc lâu quá.
Kinh nghiệm gia giảm: Tức ngực thì gia thêm uất kim, hoắc hương mỗi vị 6-10 g; đau họng, sưng gáy thì gia huyền sâm 12 g, bối mẫu 4 g. Ho nhiều, nặng thì gia hạnh nhân (giã dập) 10 g. Chảy máu cam thì bỏ kinh giới, đậu xị, gia rễ cỏ tranh 12 g, lá trắc bá, chi tử 12 g đều sao đen để giải nhiệt, cầm chảy máu. Nếu thấy nóng, chất lưỡi đỏ, cơ thể mất nước, gia sinh địa, mạch môn đông. Tiểu tiện ít thì gia sinh địa, mạch môn, chi tử, tri mẫu, hoàng cầm để chống hao thể dịch, hạ sốt, phòng bội nhiễm phổi và đường tiết niệu.
Thể phong tà xâm vào phế
Triệu chứng chính là ho, sốt nhẹ 38-38,5 độ C, hơi khát nước.
Phương pháp chữa: Thường dùng các thuốc có vị cay, tính mát, tính kháng khuẩn, giảm ho, hạ sốt nhẹ.
Bài thuốc điển hình để điều trị thể này là "Tang cúc ẩm" gồm các vị: hạnh nhân 8 g, bạc hà 7 g, cúc hoa 4 g, sinh cam thảo 3 g, liên kiều 6 g, tang diệp 8 g, cát cánh 8 g, rễ lau 8 g.
Kinh nghiệm gia giảm: Thở mạnh như suyễn gia thạch cao 20 g, tri mẫu 6 g giúp hạ sốt. Chất lưỡi đỏ, về chiều sốt tăng hơn thì gia bột sừng trâu, huyền sâm để thanh nhiệt, lương huyết, giải độc. Nếu sốt cao hơn, nằm không yên, môi đỏ khô, cần nghĩ đến rối loạn điện giải, nhiễm độc: bỏ bạc hà, rễ lau, gia mạch môn, sinh địa, ngọc trúc, đan bì giúp cơ thể đỡ mất tân dịch, giảm chứng bứt rứt nằm không yên, tạo cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Nếu có cảm giác nóng trong ngực, gia hoàng cầm để thanh phế nhiệt, phòng chống bội nhiễm. Nếu khát nước, gia thiên hoa phấn để tăng thể dịch, giảm cảm giác háo khát.
Thể cảm sốt, khó thở kiểu hen
Triệu chứng chính: Toàn thân nóng, nằm không yên, ra mồ hôi, khó thở kiểu hen, ho, mạch nhanh trên 90 lần/phút. Phương pháp chữa: Thanh nhiệt, tuyên phế, bình suyễn. Các vị thuốc thường dùng có tác dụng giãn phế quản (hoạt chất ephedrin), giảm xuất tiết, giúp thông đường thở, giảm ho và hạ sốt.
Bài thuốc kinh điển: "Ma hạnh thạch cam thang": ma hoàng 12 g, hạnh nhân 12 g, trích thảo 12 g, thạch cao 16- 40 g (nếu sốt cao trên 38,5 độ C). Kinh nghiệm thực tiễn trên lâm sàng cho thấy bài thuốc có tác dụng tốt trong các trường hợp cúm có bội nhiễm, viêm phế quản thể hen. Hiện nay, trên thị trường có bán các dạng thành phẩm với tác dụng tương tự như cao ma hạnh, bổ phế chỉ khái lộ.
TS Lê Lương Đống, Sức Khỏe & Đời Sống